Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2011

Tập thơ Thoáng lặng chiều Thu

Nghiêm Xuân Đức


Thoáng lặng chiều Thu

Xem đày đủ qua Dropbox : Đường link    http://dl.dropbox.com/u/5410557/Thoang%20lang%20chieu%20thu%20In%202006.doc
Thường phải : Bôi đen đánh dấu đường link - Chuột phải - download - Mở xem ở mặc định My docs - download - documents        Dùng xong nên xóa đi cho đỡ tốn chỗ.
hoặc Chỉ chuột vào đường link - Nhấn Đi tới đường link http://...   Open hoặc Save


Tác giả
Nghiêm Xuân Đức
Sinh ngày 10-1-1940
Quê quán : Tam Sơn - Từ  Sơn  -  Bắc Ninh
Địa chỉ : 5/487 Kim Ngưu  Hà Nội
ĐT : 8621908
Bác sĩ chuyên khoa cấp hai về Bệnh truyền nhiễm
Nguyên chuyên viên cao cấp
Vụ Khoa học và Đào tạo  -  Bộ Y tế
Hội viên Câu lạc bộ thơ Hải Thượng

















           Lời giới thiệu                   Vũ Quần Phương


Hồi còn là sinh viên Y khoa, có những tối, tôi cùng Nghiêm Xuân Đức chung phiên trực ở bệnh viện. Nửa đêm về sáng, thường các người bệnh dịu cơn đau, buồng bệnh yên tĩnh, Đức và tôi hay trò chuyện với nhau về những bài thơ dịch từ tiếng Pháp, thơ của Aragon, của Paul Eluard…Đức dịch là chính, anh giỏi tiếng Pháp hơn tôi. Nhưng tôi thạo thơ hơn anh, nên anh đem ra trao đổi.

          Hơn bốn mươi năm đã trôi qua.Tôi đã chuyển hẳn sang làm văn chương, từ 1972, sau bảy năm làm việc ở Bộ Y tế. Đức thì làm bác sĩ ở nhiều tỉnh, cuối cùng cũng về Bộ Y tế, Vụ Đào tạo, từ 1975. Anh là người yêu chuyên môn, chịu học, việc làm thơ thưa vắng dần. Bây giờ đã về hưu, anh trở lại với thơ, dịch và viết.Anh sinh hoạt khá đều đặn trong Câu lạc bộ thơ mang tên Hải Thượng của những thày thuốc làm thơ. Nghiêm xuân Đức viết khá đều. Qua những bài anh đọc, tôi thấy anh có tư duy thơ. Phẩm chất này, bài thơ dù còn vụng dại câu chữ, nó vẫn cứ tạo nên cốt cách của thơ, người viết vượt qua lối viết phong trào tức cảnh sinh tình, đề tài và cảm nghĩ thường theo thời thượng, có tính đa số.
Tư duy thơ ấy thể hiện ở chỗ tìm được ý nghĩa rộng xa trong những đề tài không có gì là xa rộng. Ông lão mài dao kéo đi rong quanh nam trên các phố hè thành phố, chuyện ấy có gì mà nên thơ, nhưng tâm tư ông mài dao
       
theo Nghiêm Xuân Đức :
            Việc mình là mài dao kéo sắc  
          Họ cắt vào đâu có biết đâu
Thì đã đụng vào những chuyện rộng xa hơn chuyện mài dao nhiều. Nói kiểu chữ nghĩa là ý thơ có tầm khái quát, tác dụng của nó là làm cho người đọc phải nghĩ sâu nghĩ xa vào việc đời, có thể nghĩ tới cả ông Nobel tìm ra thuốc nổ, thấy người ta dùng nó làm thuốc súng mà ân hận mãi. Việc nghĩ lan man ấy là quyền của người đọc hay quyền bình tán của các nhà phê bình. Người làm thơ không được tự tán ra ngay trong bài thơ, không được nói ra quá rộng so với sức gợi của đề tài. Người làm thơ cứ phải bám vào ông mài dao cụ thể. ấy là phép chừng mực của thơ. Nói qúa là thành tư biện, thành thơ giáo lý, khô khan, khó chịu. Nghiêm Xuân Đức biết cách thu ngôn luận vào ông mài dao, mà lại nói được nhiều chuyện ngoài nghề mài dao, kể cả cái nghề y tế của anh lẫn nghề bán thịt chó, mà thái độ khen chê rõ ràng:
          Tôi mài dao kéo cho viện nọ
          Dao kéo họ cùn, nghĩ phát kinh
          Sắc nhất là dao anh thịt chó
          Cứ mấy ngày tôi phải rảo quanh

         Mài dao thuê là nghề mọn, nhưng đáng quý vì nó giúp cho người và nuôi được mình, ông thợ mài nghèo khó thấy tự mình yêu nghề, chỉ một chút thôi nhưng đủ để ông yên tâm sống, có lý sống. Ông tự hào chính đáng nhưng ta thoáng xót xa. Tác giả biết thể hiện suy nghĩ ấy bằng hình tượng chứ không nói lộ ra kiểu Vinh quang thay ông mài  dao kéo quê ta !
Nói đến thế cũng là khoa trương, sáo.

Nghiêm Xuân Đức để ông mài dao tâm sự và anh thì quan sát, quan sát nụ cười tươi hết cỡ nhưng không còn răng. Khuynh hướng tư tưởng của tác giả tự bộc lộ:
          Cháu con nghèo khổ đừng ăn bám
          Chút tài riêng chớ để rỉ mòn

          Nụ cười không răng làn da xạm
          Tiếng rao bạt gió vẫn lạc quan

   Nghiêm Xuân Đức biết tìm thơ từ trong cuộc sống của chính mình, anh không viết theo người ta. Đọc thơ của các nhà khoa học thấy ưu điểm này khá phổ biến, tạo một nét trội so với thơ của giới khác. Thỉnh thoảng cũng gặp vài ông nói theo thời, tìm hiểu kỹ thì thấy sự nghiệp khoa học của mấy ông cũng là "gặp may". Khoa học là cứ phải tự quan sát trăm nghe, không bằng một thấy. Bác sỹ Nghiêm Xuân Đức thấy một anh con trai quê vào viện chăm mẹ ốm. Anh gầy, mặt buồn, nhẫn nhục chịu người ta quát mắng. Bốn câu cuối của bài thơ kể chuyện lại có gì làm ta sững người. Người con, người mẹ, người thiên hạ và cả tác giả (vốn là ông thày thuốc) hiện cả ra trong bốn câu thơ, mười tám chữ này. Tác giả kể khách quan, "vô cảm" mà ta ứa nước mắt:

Cả ngày chịu la mắng
Chờ vắng người áo trắng
Lẻn vào lo cháo cơm
 Mẹ nhìn con im lặng
Bài thơ đặt tên chữ Hán Hiếu tử hành làm nhớ hơi hướng thơ Đường thời ông Đỗ Phủ. Cái cách tìm thơ ấy, tìm từ những việc bình thường, nhỏ bé, không đáng đưa lên báo, chính là chỗ cây bút không chuyên Nghiêm Xuân Đức tách dần khỏi thơ phong trào (đang rất sầm uất nhưng ít hương vị riêng).
          Bài hoàn chỉnh của Nghiêm Xuân Đức còn thưa. Câu hay thì đã thấy nhiều. Hay không phải vì bút pháp. Bút pháp là chỗ anh phải rèn thêm. Cũng tốn công phu đấy nhưng chắc anh làm được. Câu hay ở chỗ anh hiểu việc đời, có cái nhìn thấu đáo vào nông nỗi con người. Không quá tả mà cũng không quá hữu, như tôi đã nói về sự chừng mực ở trên. Với một ông thầy giáo làm thêm nghề chạy xe ôm, Anh không cao giọng ca ngợi ca nhân vật hoặc lên án xã hội. Cái thứ háu đá ấy thật ra rất là ngựa non, chả tích sự gì. Nghiêm Xuân Đức chỉ nói vừa với tầm vốn có của cuộc đời. Anh mượn lời ông giáo dạy sử kiêm xe ôm ấy:
Lương thấp nhà nghèo làm thêm là hợp lý
Có sợ gì kẻ cướp với đường xa
Chỉ băn khoăn phụ huynh trường nhà
Thấy mình kiếm ăn trên đường cát bụi

          Mũ bảo hiểm lúc nào tôi cũng đội 
   
          Bài thơ dừng ở đấy, chỗ ông xe ôm dùng mũ bảo hiểm để dấu đi khuôn mặt thầy giáo. Tôi thấy là hợp lý. Chừng mực, hàm xúc, dành chỗ cho bạn đọc nghĩ ngợi.
          Về con nhện chăng tơ, anh tìm được ý hay:
Ai rút ruột ra làm đường đi cho mình
Và treo mình lên một đời thanh thản
Giới hạn mình bằng tơ lòng mỏng mảnh
          Anh sáng tạo ra một nhân vật Lý Thông mới, bằng toàn chất liệu cổ tích nhưng tính cách rất bất ngờ. Bút pháp khá sắc sảo, đau đớn. Anh mong ở thiên niên kỷ mới này đừng em bé nào phải làm Thánh Dóng, ba tuổi đầu đã phải ra trận.
Đứng trước tháp cổ, Nghiêm Xuân Đức không xuýt xoa với kỳ quan mà anh thương cho toà tháp phải đem cái hấp hối của mình mà tạo kỳ quan. Có thể tác giả hơi khó tính. Nhưng bài thơ thú vị là cho thêm một cách nhìn di tích, nhìn như nó đang sống:
 
Khảo cổ lăng xăng đào bới như gà
Du khách ngậm ngùi mang hoài niệm đi xa
Khúc gỗ chống thương mình mỏng mảnh
Trong ráng chiều tháp lẫn với cỏ hoa
   Tuổi lớn bắt đầu đau xương đau khớp. Là bác sỹ anh biết cái thứ đó thuốc không chữa tiệt được, phải chung sống với nó. Nó còn là cái đau tích tụ của một đời người từ thủa bát muối vay dân, lũ quét sụt đường. Câu kết của bài thơ mới đúng là cách chữa bệnh, nghĩ được thế thì bệnh phải chịu, đúng hơn chịu được bệnh:
Nếu phép màu cho chuyển lùi năm tháng
Sương gió nẻo xưa ta lại lên đường
          Thơ của cây bút trẻ này là thơ của người vào tuổi lớn, là một cách đúc kết những chiêm nghiệm đời người. Nghiêm Xuân Đức có sáng kiến mượn hình tượng hoa và quả nói nỗi mình, gọi là tự an ủi cũng đúng mà bảo là tự hào cũng có lý:
Hoa rực rỡ muôn màu
Quả chi’ trầm tĩnh đỏ
Hương hoa bay theo gió
Quả nằm lặng trong tay
(…)
Trăm hoa đậu một quả
Ong bướm nào ghi danh

Nghiêm Xuân Đức đưa tôi tập bản thảo này với một sự rụt rè rất bất ngờ với tôi.    Khi đi học, anh đối xử với tôi
có dáng một người anh ở chỗ anh hay nhường tôi khi có tranh luận, lại hay tìm ra cái để khen tôi làm tôi hào hứng. Đức là loại tính cách già dặn từ khi còn rất trẻ. Anh chăm học và tự tin. Sau này về Bộ làm công tác đào tạo là đúng sở trường. Tác phong thị phạm rõ lắm. Cái cách anh nhờ tôi đọc thơ hơi khách khí nhưng quả thật, có làm tôi xúc động. Hơn bốn mươi năm bao nhiêu dâu bể của đời người. Mọi kỷ niệm xưa đã thành xa thăm thẳm. Tất cả các bạn bác sỹ của khoá tôi hồi ấy đã về hưu. Đau yếu, tật bệnh. Nhiều người đã ra đi. Một lần gặp bạn là một lần hình dung năm tháng. Tôi thấy những bài thơ của Đức dưới mắt mình là những câu tâm sự, tâm sự với bạn bè cùng khoá, cùng nghề, tâm sự với bạn gần xa đã từng đi chung những đoạn đường năm tháng với mình. Quả có đôi câu chữ chưa thể hiện hết nỗi lòng, nỗi nghĩ của tác giả. Nhưng lòng người đọc khi đã cộng hưởng với người viết thì nghe chưa ra, chưa rõ, tâm trí cũng đã cảm được rồi.


Hà nội, ngày 09 tháng 9       năm 2005                                    
                                        Vũ Quần Phương






Sông Ngân


Con sông chảy lơ mơ trong huyền thoại
Những chàng Ngưu ả Chức xa nhau
Ô Thước đàn chim chắp cánh nhịp cầu
Tháng Bảy lê thê ngày mưa tầm tã

Tái hợp, chia ly, khúc điệp ca buồn bã
Bao giọt lệ rơi ròng rã cơn mưa
Bao nhiêu sông cho đủ những tiễn đưa
Bao nhiêu cầu nối lại tình xưa cũ
Chỉ một con sông , một cây cầu có đủ
Cho hợp tan day dứt cả nhân gian...






    


Suối đãi vàng

Họ phun nước và cuốc cào tầng đá cổ
Xả vào dòng chảy lớp bùn nhơ
Xua đuổi tiếng chim, đạp bằng hoa cỏ
Bướm rừng nào còn lại với suối mơ

Anh cũng phải đãi vàng , ai chả thế
Nhưng anh đừng tàn hại suối trong
Hãy lắng đọng và chắt chiu bụi vàng kiên nhẫn
Dù chỉ làm ra một hạt nhỏ ước mong




 

       Luân Hồi


Kiếp này làm trâu ngựa
Đời trước là vua quan
Những tiền kiếp đa đoan
Sắc- Không luân hồi mãi

Dưới chín tầng Địa Ngục
Trên mười phương Thiên Đường
Bể Khổ và Cực Lạc
Ngẫu nhiên phận Âm Dương

        Thiện Ac  mơ hồ quá
Ngày Phán Xử cuối cùng
Đời này mang thân phận
Bao  nghiệp trước mông lung

Cứ  Tiêu Dao tự  tại
Giác Ngộ ở lòng ta
Đừng sợ gì Địa Ngục
Đừng mơ Thiên Đường xa




 

      Cô gái đua xe lăn


Đường đua vắng lặng
Em đua một mình
Mồ hôi bết tóc
Trong nắng bình minh

Hai chân đã liệt
Còn tay , còn tim
Xe lăn thân thiết
Vọt bay như chim


Vượt bao rào cản
Vượt lên thời gian
Em đua để vượt
Số phận gian nan

Chiếc xe vun vút
Lướt trong bình minh
Đốm hồng ngọn đuốc
Thắp sáng lòng tin






Mô phỏng


Tàu bay mô phỏng con chim
Tàu ngầm bắt chước cá chìm biển sâu
Bọ que khô khốc cành dâu
Ra đa phát sóng nhiệm màu con dơi


Anh là Rô-bốt em ơi
Làm sao mô phỏng tim người anh yêu





Chắp nhặt dông dài


***Hôm nay họ đến thăm thày
Xe bóng loáng và hoa đày tay
Người thành đạt nhớ công dưỡng dục
Thày cười không răng , tóc trắng bay...

*** Niềm vui là đeo quá khứ lên ngực trái
ánh huân chương soi mát hồn ta
Cũng biết đời còn thác ghềnh phía trước
Vinh quang ngọt ngào ai nỡ rời xa !

*** La Hán nhăn mày,Di Lặc cười toét miệng
     Di Đà trầm tư trong khói trầm xanh
     Và Quan Âm bế hài nhi âu yếm
     Niết Bàn đời thường mê đắm cả Em-Anh.

*** Trang giấy mỏng soi lên thấy tim nhà thơ
       Kể cả khi anh uỡn ẹo giày gót cao và bết bê son môi kỹ nữ
Nếu thơ anh ấm nồng như giòng máu đỏ
Thì trái tim kia đồng nhịp với những ước    mơ...






              Tìm em


     Tìm em từ trẻ đến già
Tay trong tay vẫn cứ là tìm nhau
     Vẫn trên môi nỗi khát khao
Vẫn trong đôi mắt ánh sao buổi đầu
     Bên nhau giữa những cơn đau
Chung vai chia xẻ gian lao cuộc đời
     Chẳng gì ngăn cách em - tôi
Mà sao có lúc xa vời trùng dương
    

     Những chiều lãng đãng khói sương
Em như xẩm tối trên đường tôi đi
     Mi cong kia nghĩ suy gì
Những lời bình thản tôi nghe hững hờ
     Nụ cười hiền dịu lửng lơ
Trong im lặng ấy tôi ngờ sóng đêm
    Bao lời tâm sự thân quen
Nỗi gì cam chịu triền miên tháng ngày
     Mộng thời con gái xa bay
Âm thầm nghĩa vụ , vai gày trao nghiêng


     Ước gì tôi nhập hồn em
Để tôi khỏi mãi đi tìm nửa kia…





     Nghe thấy ở Trường Thành


Bất đáo Trưòng Thành phi Hảo Hán
Du khách lặng im , dạ thẫn thờ
Gíó trên trên chiến địa ngàn năm ấy
Cùng tiếng gươm đao vọng đến giờ

     Khí phách giương cung bắn chim Điêu
     Giong cương  thảo dã , hát phiêu diêu
     Bây giờ đá xám dài vạn lý
     Như dãy mồ hoang khuất ráng chiều

Tiếng khóc Chiêu Quân với Hạnh Nguyên
Lẫn trong tiếng thét của muôn quân
Aỏ não tiếng ru nàng Chinh Phụ
Trong gió thảo nguyên rít triền miên

     Hoà giải ngàn thu hận Hán – Hồ
     Tô Vũ chăn dê đến bao giờ
     Trường Thành ca mãi lời của đá
     Nhất tướng công thành , vạn cốt khô









Có những ngàn năm huyền thoại mông lung
Đào bới mãi chỉ thâý trống đồng và rìu đá
Nhưng để lại cho ta Âu Cơ phì nhiêu vạm vỡ
Trăm trứng Rồng phồn thực sinh sôi
Sơn Tinh , Thuỷ Tinh tranh đấu mãi không thôi
Bánh dày,bánh chưng và trầu cau đằm thắm
Bài học Mỵ Châu vì yêu mà để mất nỏ thần 
rồi bị vua cha chặt đầu bên biển thẳm
Và chú bé lên ba ăn nong cơm , nong cà để vụt lớn lên ,
đi đánh giặc bằng ngựa sắt với gậy tre



Rồi ngàn năm tối tăm nô lệ lại qua đi
Đốm sáng Triệu Việt Vương loé lên
trong đầm lầy Dạ Trạch
Đoàn cống phu gánh vải của Mai Thúc Loan
vùng lên đạp bằng thành quách
Nghĩa quân Phùng Hưng gọi thủ lĩnh mình
là mẹ , là cha
Ngàn năm nước mắt và máu chảy chan hoà
Trên con đường tìm ngọc trai , sừng tê
của những bàn chân Giao chỉ



Có ngàn năm sáng tối từng thế kỷ
Đau lòng với Lê Chiêu Thống ,Trần Ich Tắc đớn hèn .
Với Hịch Tướng Sĩ và Cáo Bình Ngô , ta lại ngẩng đầu lên
Nghe tiếng voi gầm thời Bà Triệu , Bà Trưng
vọng thành tiếng pháo oai hùng 
trên núi rừng Tây Bắc
Vó ngựa đá Lý Thường Kiệt lên đường giết giặc
In hằn trên vết xích xe tăng khắp nẻo chiến trường
Mũi tên đồng từ cây nỏ An Dương Vương
Bay lên thành tên lửa đốt Pháo Đài Bay cháy rực



Thiên niên kỷ này
Cầu mong không còn ai khổ cực
Trẻ lên ba không xung trận sa trường
Bà mẹ cất súng đi , cất lời ru yêu thương
Dòng lệ quanh thân cô Kiều
chảy thành dòng suối hoa thơm ngát
Nàng Tô Thị đón chồng về trong tình yêu rào rạt
Cái niêu thần vô tận Thạch Sanh chia khắp mọi nhà
Thiên niên kỷ này đày ắp thơ ca
Câm bặt tiếng thét hận thù và tiếng súng


Ôi thiên niên kỷ của bao nhiêu hy vọng...






Sông in hình bóng núi triền miên
Những Bắc Quang , Vị xuyên , Hàm Yên...
Dáng cọ hiền hoà , dáng rừng già dữ dội
Như con rồng uốn lượn giữa thiên nhiên

Sông ầm ào xô nghiêng vách đá
Sóng giận hờn bọt tung trắng xoá
Phong lan vẫn xoè hoa , in bóng nước trong.
Thuyền đi rồi để bến chờ mong

Bên sông xây nhà , bên sông chiến đấu
Có ai mơ làm người Sông Lô không

Ta đã hiến cho sông đoạn đời trai trẻ
Để thu về tràn bờ nỗi nhớ mênh mông...

Trăng trôi


Non cao biển rộng , lòng ng­ười ở đâu

Bụi hồng gió cuốn xa nhau

U hoài tìm hỏi trăng sao trên trời




Lời xưa hẹn d­ưới trăng trôi

Trăng mang lời hẹn theo ng­ười trôi xa...

Gạch đá rêu phong và cây leo

Tháp đổ nghiêng như thời gian xiêu

Mặt trời nhăn mày cái nhìn đổ lửa

Vào lương tri và lịch sử mốc meo



Mặt tượng trầm tư, mắt đá tràn thương cảm

Vũ điệu Ap xa ra, ngực căng , tay mềm

Lời rao giảng của nhà hiền triết

Vẳng theo tiếng chiêng cồng và khúc hát dịu êm



Khảo cổ lăng xăng đào bới như gà

Du khách ngậm ngùi mang hoài niệm đi xa

Khúc gỗ chống thương mình mỏng mảnh

Trong ráng chiều tháp lẫn với cỏ hoa

Ai đến cũng quên cả lối về

Nỡ để Sao Khuê về lại đến

Vư­ờn Vải trăm năm hận tái tê...





Ông lão mài dao kéo


Nào phải Thái A với Long Tuyền

Đao Đồ Long hay Bảo Kiếm gia truyền

Chỉ dao bầu mẻ và kéo rỉ

Hòn đá mài và câu chuyện hồn nhiên



”Tôi mài dao kéo cho Viện nọ

Dao kéo họ cùn , nghĩ phát kinh!

Sắc nhất là dao anh thịt chó

Cứ mấy ngày tôi phải rảo quanh.



Việc mình là mài dao kéo sắc

Họ cắt vào đâu có biết đâu ?

Chỉ biết mình nhìn ra thép tốt

Giúp cho sắt thép được bền lâu



Cháu con nghèo khổ đừng ăn bám

Chút tài riêng chớ để rỉ mòn…”



Nụ cười không răng , làn da xạm

Tiếng rao bạt gió vẫn lạc quan…



Phế tích


Trăng thề còn đó giữa trời 

                                          cho đời




Mũi Né


            ...Thuyền tìm gió táp mưa sa
        Vì trong giông bão mới là bình yên
                               (Thơ Lec- môn- tôp)



Nơi đây tàu thuyền vào né bão
Sóng biển hiền hoà mặc gió giông
Em bình thản bên anh trên biển lặng
Anh né vào đâu trong trận bão lòng...



Nhớ Sông Lô

                                                                                                      Tặng PĐN











                Trách Côn Sơn

Côn Sơn mây và núi say mê 









Người nặn tò he


      Nào có gì đâu                                  
Chút bột  nhiều màu
Con dao, cái lựơc
Mà lòng xôn xao

Quan Công mặt đỏ
Thiếu nữ áo xanh
Con gà trống tía
Liếc mắt đa tình

Bàn tay như múa
Râu bạc lung linh
Ông già Sáng Thế
Buồn bã nhìn quanh

Người mua búp bê
Mua súng, mua xe      
Lặng im góc phố
                         Ngơ ngẩn tò he...






Có những đêm một đèn  , một bóng
Trang sách mơ màng bỗng thấy hồn ma
Khuôn cửa sổ thoáng Nàng Hồ kiều diễm
Dáng Liêu trai lãng đãng gần xa

Vòng tay giá băng bên mình rắn quấn
Rừng rực trên môi ngọn lửa vết son
Mềm dịu đào tiên và đường cong say đắm
Vũ khúc cuồng si, hương xạ mê hồn

Nào ai biết những Kiều Na , Dạ Soa
ấm áp Hồ Ly , lạnh rợn thây ma
Những hang động và nghĩa trang u tối
thành Lâu đài rộn rã đàn ca

                         Hồ Tinh chung tình , Hồn Ma hút máu
              Nghiã khí với gian tham đâu phải chuyện Liêu trai


 Đường đời đa đoan , bon chen chán ngán
     ám ảnh muốn vào ảo cảnh cùng ai...




Hiếu tử hành


Khuôn mặt gày buồn xo
Tránh gió ngồi co ro
Bên gốc cây cổng viện
Người qua lại thờ ơ

Mẹ già lâm bệnh trọng
Le lói tia hy vọng
Bán trâu , bán mảnh vườn
Nét ưu tư còn đọng

Mẹ mình không người  chăm
Ai nâng giấc sớm hôm
Con trai theo hầu mẹ
Con dâu nuôi đàn con

Chờ vắng người áo trắng
Lẻn vào lo cháo cơm
Mẹ nhìn con im lặng




Dỗ dành xuôi ngược 

Anh dỗ em xuôi dòng sông đến vùng cửa biển
Nơi nước và mây hoà quyện chân trời xa
Anh dỗ em ngược con đường lên miền núi thẳm 
Thác ghềnh thành dòng sông chảy hiền hoà 



Anh dỗ em xuôi thời gian đến ngày đầu bạc
Tay trong tay ta vẫn bên nhau
Anh dỗ em ngược cuộc đời về thời thơ ấu 
Ngựa trúc, mơ xanh e ấp tình đầu 



Nhưng em vẫn giận hờn anh mãi 
Mặt hồ cau có rợn sóng thu 
Thuyền anh chao đảo trong gió lạnh 
Chèo mãi mà không cập bến bờ 



Hay ta lại xuôi dòng em nhé 
Về miền Cực Lạc , xứ Thiên Thai 
Hay ta lại ngược thời Tiền sử 
Để thấy Khủng long , Dương xỉ muôn loài 


Cứ ngược xuôi hoài rồi cũng gặp Ê va
Dỗ A đam ăn trái cấm vườn  nhà
Em nghe đỏ má cười  e lệ 

Trong vườn bừng nở một bông hoa






Người chạy xe ôm




Ông xe ôm là người hay chuyện
Giúp khách quên đi quãng đường xa
Mũ bảo hiểm và giọng nói hiền hoà
Khách đỡ sợ cái xe cọc cạch 


Chuyện cổ kim tinh thông sử sách
Từ nhà Thanh đến đất châu Phi
Miếu đền và tên phố dọc đường đi 
 Cứ vanh vách danh nhân và sự kiện
Rất rạch ròi cái ác và điều thiện
Vẫn băn khoăn di tích bị lãng quên


Có một điều trăn trở triền miên
Là thày giáo dạy môn Sử ký
Lương thấp, nhà nghèo, làm thêm là hợp lý
Có sợ gì kẻ cướp với đường xa 


Chỉ băn khoăn phụ huynh trường nhà
Thấy mình kiếm ăn trên đường cát bụi


“ Mũ bảo hiểm này lúc nào tôi cũng đội ! ”




Internet


Chú chuột con chíp chíp vô tư
Phải đâu Cân Đẩu Vân Tề Thiên Đại Thánh
Đâu Ngũ Hành bàn tay Như Lai vô tận
Mà nối ta với hoàn vũ mênh mông

Anh thấy nụ cười em như phép thần thông
Làm lắng dịu nỗi niềm xa cách
Chỉ một micron chứa ngàn vi mạch
Cho anh bồi hồi nhịp đập trái tim em

Ta nhập vào thế giới vô biên
Sôi nổi khúc hoà đồng nhân loại
Ngỡ ngàng ước mơ tuổi thơ huyền thoại
Biết mình vượt xa những ảo ảnh Tây Du...




Quan Thế Âm Bồ  Tát





Hoa ngát , hương trầm lan 

Bồ Tát ngàn tay vàng 

Ngàn mắt long lanh sáng 

Màu nhiệm nước cành dương 



Trên Toà Sen anh minh 

Cứu khổ cho chúng sinh 

Lắng nghe từ xa thẳm 

Lời cầu mọi sinh linh 



Em không trên toà sen 

Lời cầu khẩn thân quen 

Cũng thờ ơ chẳng thấy 

Anh chìm đắm ưu phiền 



Anh cầu một bàn tay 

Một ánh mắt hôm nay 

Nước cành dương một giọt 

Cứu rỗi anh ngàn ngày



















Hãy chờ xem , hỡi Lý Thông mày !






          Vài người bệnh buồn lo
          Những căn phòng vắng lạnh
           Bóng áo trắng co ro
           Gíó núi lùa thêm mạnh

Mảnh trăng hạ tuần cong như lưỡi hái

Đêm nay Giao thừa không dám ló ra

Thần Chết tinh ranh cam tâm thất bại

Thêm một ngày – một năm – người lại thắng ma

Cất dao kéo, bày bàn ngũ quả
Cùng thắp nén hương trên tủ đầu giường
Mùi khói trầm át đi mùi thuốc      
                   Thêm ấm lòng những kẻ tha phương

Tống cựu nghênh tân , giờ thiêng đã điểm.

         Vọng mơ hồ tiếng sóng phát thanh
Góc núi này một nhà thương im lặng
Truyền sự sống cho những sinh mạng  mong manh


Thày thuốc bóc chiếc bánh chưng thanh đạm
Chúc bệnh nhân vui hưởng mùa Xuân
Giọt máu thấm băng hồng lên sự  sống
Như  mầm hoa lại nở trên non





Gửi người thợ phục sinh sông Kim Ngưu



Con sông này hắc ám thê lương
Dòng nước chết chảy từ địa ngục
Những kiếp người trong mái lều lụp xụp
Sống mòn số phận xóm liều

     Các anh đến đây vào một buổi chiều
Mũ nhựa , ngực trần , máy bơm , máy xúc
Tiếng nói trộn nhiều miền đất nước
Cùng một lòng khôi phục sông xưa

Điều diệu kỳ không dễ hiện ra
Mặt sông vẫn hằn nếp nhăn đen tối
Nhưng đèn chùm đã sáng lên chấp chới
Liễu ven bờ xoã tóc tung bay

Đã hiện lên hy vọng khúc sông này
Trên bến dưới thuyền , đèn hoa rực rỡ
Những lứa đôi thanh tao miền Kẻ Chợ
Những nhịp cầu lễ hội giao duyên

Xin gửi các anh trọn một niềm tin
Hãy dắt về đây con Trâu Vàng thưở ấy.
Mười người con…! 
                 Thần nhân chỉ cần có vậy !
Mà nay ta đội ngũ trùng trùng !





Đưa em đến bến đò ngang


       Tặng học viên các lớp Sư phạm Y học  

         Đưa em đến bến đò ngang
Tiễn em một đoạn quá giang , thày về…


          Đò ngang trên bến sông quê
Thân quen mùa phượng , tiếng ve bao ngày
         Eo xèo nào quản đò đầy
     Bến bờ vừa cập lại quay mũi đò
         Mái chèo trao gửi học trò
     Em cầm cho vững mà lo phận mình
          Hoàng hôn cùng với bình minh
     Từ nay gắn với hành trình đò ngang
          Băn khoăn giáo án từng trang
     Chăm lo số phận trái ngang từng trò.
          Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Con đò chở Đạo giữ cho bền lòng
    

     Ân cần đưa sáo sang sông
Đã mòn con mắt ngóng trông từng ngày





Cháu đi rước đèn


Cháu đi rước đèn
Môi cười hớn hở
Trung Thu rực rỡ
Trăng tròn bình yên
             Mẹ đi rước đèn
             Bánh dẻo đường đen
             Mũ rơm , áo cũ
             Dép nhựa lấm lem
Ông đi rước đèn
Hạt bưởi thắp lên
Một quầng sáng nhỏ
Soi tỏ đường quen
             Đường ông và mẹ
             Gập ghềnh triền miên
             Hôm nay trăng sáng
             Cháu đi rước đèn





Cánh én đầu tiên


Một con én không làm nên mùa xuân
                                        ( Ngạn ngử Pháp)

Một chim én cô đơn
Báo sớm mùa xuân đến
Cánh xập xoè trên bến
Sông vắng , đồng không hoa

Nước vẫn lặng như tờ
Gíó bấc , trời u ám
Dưới những vầng mây xám
Trơ trụi hàng cây khô

én bảo đông đã qua
Hết những ngày giá lạnh
Trong hạt mầm thúc mạnh
Cành sẽ nảy chồi tơ

Hàng năm tôi đợi chờ
Con én quen đến sớm
Run rẩy và dũng cảm
Ríu rít báo xuân sang

Rồi cả đàn én về
Khi mặt trời sáng tỏ
Ai nhớ niềm vui nhỏ
Với  cánh én đầu tiên





Xuống sân bay


Dãy đèn đ­ường băng mờ nhạt trong s­ương
Tôi bay nơi nơi rồi hạ cánh về quê mẹ
Sẽ giã từ những động cơ mạnh mẽ
Nghe cỏ hoa d­ưới đất gọi mời

Tôi từ tôi bay đến chính tôi thôi
Đài không lưu nào chỉ con đường đúng nhất
Dù có bay vòng cao vòng thấp
Nơi hạ cánh là hy vọng của lòng ta





Con nhện


Ai rút ruột ra làm đường đi cho mình
Và treo mình lên,  một đời thanh thản
Giới hạn mình bằng tơ lòng mỏng mảnh
Để đọng giọt sương hạt ngọc long lanh...


Nhện vàng , nhện đen vương vào vai áo
Làm sóng lòng thiếu nữ xôn xao
Điềm dữ , điềm lành nào ai báo trước
Hạt mưa sa vương vấn chuyện mai sau...

 

 

 

Sóng Phan Thiết



Biển Phan Thiết, nơi sóng cồn tha thiết
Và Hòn Rơm , mùi cá biển nồng say
Ngoạ Du Sào , nơi ngâm thơ đọc sách
Nhớ Làng Sen gắn bó một trời mây...


Sóng nơi đây xao động lòng trai trẻ    
Bến  Nhà Rồng và biển á- âu
Người ra đi và trở về mới mẻ
Sóng biển này rung chuyển cả năm châu




Theo nhau


Mây theo mưa để đi vào lòng đất
Ong theo hoa để làm mật cho  đời
Son theo hoa Đào  mong  cặp môi tươi
Anh theo em tìm Thiên đường hạnh phúc


Đất thoả thuê cơn mưa phồn thực
Mật được hương man mác ngọt ngào
Môi đắm say nụ hôn hoa đào
Anh theo em... một đời ngơ ngác...





Xem tranh “ Kéo thuyền trên sông Von ga”

Tôi lẩn khuất ở  Ec- mi- ta- giơ
Thờ thẫn như một vong linh quỷ ám
Khi bàu trời Nê-va màu xám
 Soi dòng sông tuyết băng
Cả khi Đêm trắng và Bắc cực quang
Tôi lại đến để nhập hồn vào khung tranh ấy

Trong cái khung dát vàng lộng lẫy
Những người phu kéo thuyền bặm trợn , xác xơ
Mặt xạm đen và râu tóc bơ phờ
Chân bám miết , tay nổi gân thừng chão
Họ kéo mãi con thuyền Nga già lão
Trong điệu Hò dô mênh mang buồn thảm
                                                               thảo nguyên  xanh …

                               
                                 Giữa bức tranh một bóng dáng mong manh
Khuôn mặt trắng xanh , đôi tay hờ hững
Mảnh khảnh liêu xiêu , chân không bám vững
Như lạc trong đoàn phu lực lưỡng của Von-ga

Bên tai tôi lao xao những người Nga
Họ bảo : “Chàng trẻ này sẽ chết !”
Tôi thất thần nhìn ra đoạn kết
Từ bức tranh linh hồn bay lên ...

          Bức tranh ám ảnh tôi triền miên
Tôi lại đến để chia tay chàng trai trẻ ...

 Tôi xa Nê-va hai mươi năm có lẻ 
  Biết bao giờ lại đến vĩnh biệt ANH ...





Bài thơ về các Thiên Niên Kỷ



Tháp Bút


“Tả thanh thiên” – viết lên trời xanh
Ông Nguyễn Siêu viết gì trên đó
Bên Hồ Gươm cây lộc vừng lặng gió
Liễu tóc em cũng im lặng xoã dài

Mắt đen em thầm lặng nhìn tay
Ngón  tay em thon dài  tháp bút
Ngón tay anh vụng về dùi đục
Mười ngón thô không một hoa tay

Em chẳng muốn nghe lời thô vụng chiều nay
Nhưng hãy làm Đài Nghiên kiên nhẫn
Để anh viết lên điều bất tận
Em đã nghe từ thửơ ban đầu





        Anh và Em


Con bọ hung  và con hươu
             Với bộ sừng kềnh càng
Anh là con nào ?
              Anh không biết được  !

Chỉ có em bảo anh là hạt thóc
Và giã
          Và xay
                    Và  nấu thành cơm

Chỉ có em bảo anh là con cóc
Và bảo nghiến răng
                            để cầu nước

Phản cảm với Waltz Disney


Những tiên đồng của thế giới này
Cũng như  tôi, yêu Anh lắm đấy
Waltz Disney , Anh là người vĩ đại
Những xứ sở thần tiên kỳ diệu sắc hương
Dingo đáng yêu , Donald khàn giọng vịt

Nhưng Anh dạy trẻ em yêu loài chuột
Tàn ác bất công với chú Mèo xinh.
Bạo lực và xỏ xiên trên những khuôn hình
Cuốn hút bao mắt tròn thơ dại

Và Âm nhạc của tâm hồn nhân loại
Trong tay Anh thành khúc nhạc hề !


Tôi yêu cô Tấm xứ tôi hiền hậu chân quê
Khúc ru Bống hoá giải bao thù hận


Waltz Disney , xin Anh đừng giận
Tôi sẽ dạy cháu tôi yêu nhạc , yêu mèo
Cổ tích xứ tôi thấm đẫm tình yêu





Khoảnh khắc

 

            Ai nói thời gian bóng câu
           Bước thời gian chậm mà chắc lắm
      Bình thản vô tình con đường thăm thẳm
  Bỗng cuối đường chuông nguyện vang xa

                 Nhớ mặt người và những bài ca
                 Lao xao giảng đường...
                                    bâng khuâng biên giới ...
                 Sắc Păng-xê gợi Bằng lăng bối rối
                 Đất khách hay góc phố quê mình

           Cứ đi , cứ đi ... như kẻ vô tình

Chạm heo may , bỗng nhìn lên mái tóc
Màu thời  gian như  rừng Phong điểm bạc
Khách lữ  hành mong bếp lửa reo vui

   Đuôi mắt chân chim em vẫn bồi hồi
        Nhìn bóng anh xa dần trong cát bụi ...
Đất nước hai đầu  gánh thời gian lầm lụi
Cái hữu hạn của ta , cái vô hạn của Người
Ta chỉ là khoảnh khắc . Thời gian ơi
Khoảnh khắc ấy vinh quang hay chìm đắm
Số phận con người khoảnh khắc mà thôi ...

     Loé sáng lên đi , ánh La de ngạo nghễ
     Rực rỡ chói loà những mưa nguồn chớp bể
               Đừng chìm vào dằng dặc đêm bình yên ...





Lý Thông  ngang nhiên


Tôi thấy Lý Thông chui ra
                               từ vỏ quả thị quá mềm,
Mựơn hương thị thơm
       để đứng gần  Ông Bụt đang cười toét miệng
Vẫy tay chào chim Đại bàng
            cắp Công chúa Quỳnh Nga
                                 ngang trời bay liệng
Dúi vào tay cô Tấm hũ  mắm đầu người
           Vung rìu Thạch Sanh chặt rừng mãi không thôi
Nấu cái niêu thần
              thành vô số bữa ăn ê hề sơn hào hải vị
Có cả món dơi goá chồng ,  
      bẫy từ ngôi chùa Khơ-me xa ngàn hải lý
          Gan ruồi , mỡ muỗi, voi chín ngà , gà chín cựa,
                                ngựa chín hồng mao...
Gảy ngón đàn tích tịch tình tang vút cao
Làm ông quan đội mũ Ô Sa
                                     bỗng nhiên  câm lặng
Có lúc y hoá thành chim Vàng Anh
                             hót mê hồn trong chiều vắng
Để gả cô Cám lọc lừa cho gã trai tơ,
Có lúc y bán rao giữa phố chợ  xô bồ
Những đề thi và luận văn Tiến sĩ

          Con bọ hung dũi dọc dũi ngang cuộc đời vô sỉ
Lưỡi tầm sét Thiên Lôi đánh vào đâu
                                                        nào có ai hay

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét